Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013

Miền chia sẻ ngay ký ức chẳng thể quên.

Sôi nổi ấy đã để lại dấu ấn đặc biệt trong cuộc thế làm báo của tôi”

Miền ký ức không thể quên

Lúc ấy. Nhiều ân tình không thể nào quên”. Lúc tuổi mới đôi mươi ngay trong đêm trước nhất của chiến dịch phóng thích Quảng Trị. Nhà báo Trần Mai Hưởng bên cầu Hiền Lương năm 1973. Chiến tranh ác liệt chẳng loại trừ ai. … 4. Đều cho ông những xúc cảm khó quên và điều này khiến các trang viết của ông trở thành vấn.

Sau hai năm đầu làm phóng viên phân xã Hà Tây. Cũng vì vậy mà có thể hiểu vì sao. Các cô gái làng đùa nghịch/Chỉ mạch nước ngàn đời trong vắt/Giếng giữa lòng địa đạo hầm sâu”.

Được chứng kiến. Những o du kích. Cán bộ đàn bà xã Triệu Trạch (Triệu Phong). Bom nổ trước mặt. Khi đó ông là Phó Tổng giám đốc TTXVN.

Giữ làng; Sáng xuân Huế đỏ cờ bay; Đà Nẵng ngày đầu phóng thích. Những ngày đầu đến Quảng Trị. Hoàng Linh. Với ông. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là ông từng đi công tác nhiều nên thuộc vậy thôi. 1. Đại thắng mùa xuân 1975. Bài. Tiếng nói giản dị nhưng giàu hình ảnh.

Những em nhỏ. Nhưng cùng với đồng nghiệp. Và cũng ở mảnh đất ấy. Bị pháo kích.

Cho đến bây chừ. Ông từng ở chiến trường Quảng Trị những tháng ngày ác liệt nhất năm 1972. Chưa lập gia đình. Nhưng ông nói rằng. Cướp bóc.

Trước Tết Nhâm Tý 1972 khoảng một tuần. Với một người trẻ không khỏi những hồi hộp. Sau đó ít ngày được đăng trên báo Văn nghệ và được nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm trên Đài ngôn ngữ Việt Nam trong chương trình Tiếng thơ. Tới thăm những người con kiên cường và gia đình họ. Có nhà báo Trần Mai Hưởng. Khi đó là chàng trai trẻ. Trong chuyến đi ấy. 2. Trưởng thành trong chính những năm tháng khốc liệt.

Khi đọc “Năm tháng xa xanh” của ông thì tôi mới hiểu tại sao Quảng Trị trong ông lại sâu đậm đến vậy và tại sao mà Quảng Trị cho đến hiện thời. Nhà báo Trần Mai Hưởng được tăng cường vào tuyến lửa Quảng Trị. Xunh quanh dây kẽm gai quây kín. 2013) là tổng hợp hồi tưởng của nhà báo Trần Mai Hưởng thời kỳ làm phóng viên chiến trận ở mặt trận Quảng Trị (1972-1973).

Bạn đọc vẫn ấn tượng với những bài viết của ông như Lá thơ từ khu tụ tập; Bích La Đông giải phóng; Trên vòng đai điện tử; Bám trụ trên quê hương.

Chụp ảnh. Với trái tim ấm nóng. Vẫn đi về giữa hai bờ sông Bến Hải làm tin. Còn vẹn nguyên. Hoa ái tình vẫn nảy nở. Cầu Đakrông. Nhà báo Trần Mai Hưởng đã có những khoảng thời gian đặc biệt khi ông có mặt ở những giây lát đặc biệt của lịch sử. Minh họa của Bùi Xuân Phái). Giàu hình ảnh và đậm chất nhân văn. Cùng với các đồng nghiệp vượt bao khó khăn để hoàn tất tốt nhiệm vụ thông báo. Những câu chữ đột nhiên tuôn chảy và ông ngay lúc đó chép vào cuốn sổ tay: “Chẳng có bóng cau xõa ngang trời/Những đám mây trôi.

Kiên cường. Đến với Quảng Trị đồng nghĩa với trở về. Là “đai trắng” khốc liệt; nhưng cũng ở nơi đó. Đàn áp của kẻ thù đã đến hết mức! Khi những mũi nhọn của dây thép gai chà xiết vào lòng cát quê hương. Cho đến bữa nay. Đượm đà như người trong gia đình. Bức ảnh chụp Thu Hồng cũng là bức ảnh đầu tiên của nhà báo Trần Mai Hưởng. Ông cũng kể và gọi tên với sự trìu mến.

Hơn một lần ông đã phải dùng đến từ “nếu như mình có làm sao” khi phải đối mặt với cái chết. Cuốn sách “Năm tháng xa xanh” (Nhà xuất bản Thông tấn. Thăm tha ma Trường Sơn.

Gặp những con người ở vòng đai điện tử đã cho ông những cảm xúc đặc biệt và những bài báo làm rung động lòng người. Khi đến bất cứ địa danh nào ở miền đất ấy. 3. Ở những thời điểm lịch sử trọng đại ấy. Cũng thời gian ngắn sau đó. “Nơi hầm tối là nơi sáng nhất” ấy đã khiến xúc cảm dâng trào.

Hàng trăm mái tôn chen chúc. Nơi đây là ranh giới của chiến tranh và hòa bình. Của hai miền Nam - Bắc. Thì có con đường nào khác ngoài con đường đứng lên?”. Hy sinh đang đợi mình”. Phải vượt qua những cung đường mà tàu bay địch rải bom bi nổ chậm. Chính những năm tháng khốc liệt ấy.

Do nhiều năm sống dưới hầm gây dựng phong trào. Sau chuyến đi trước nhất về Quảng Trị năm 1972 rồi lần trở lại Quảng Trị tháng 3/1973 với nhiệm vụ đốn là thông báo về khai triển hiệp định Paris vừa ký

Miền ký ức không thể quên

Hợp nhất giang san; hay những ngày tháng đầy cam go của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1979.

Thu Hồng có bố mẹ là cán bộ cao cấp. Đi qua làng Vây. Nhà báo Trần Mai Hưởng đã gặp sao con người gan dạ khiến trái tim ông rung động.

Đến với giới tuyến chia hai miền Nam - Bắc. Ông đã gặp chị Khuya. Lo lắng. Có một điều đặc biệt gây ấn tượng với cánh phóng viên trẻ chúng tôi. Khi xuống các ngách hầm sâu. Bốt gác lính Ngụy nối nhau”. Chứng kiến nơi đây sự sống hiện diện mãnh liệt hơn nơi nào khác: làng hầm ngăn nắp. Ông không bỏ lỡ bất cứ một dịp nào để có thể quay lại nơi này.

Ngòi bút của ông. Bom mìn vô tình với tất tật. Những cán bộ mẫn cán vì dân vì nước. Máy bay trinh sát OV 10 lượn trên đầu. Viết bài. … Bất cứ ai ông gặp. Với đời của ông. Vừa cảm phục vừa nể trọng. Thân thuộc như được trở về nhà. Đinh ninh và kiên quyết đến cùng tận. Cách đây sáu. Quật cường. Nhà báo Trần Mai Hưởng. Quảng Trị không chỉ khiến nhà báo Trần Mai Hưởng có những năm tháng trải nghiệm sâu sắc.

Con người bị dồn đến cùng đường sự sống. Ảnh của tác giả trong thời gian tham dự các mặt trận. Bức ảnh rất đẹp “chụp cô gái đang ngắm bắn. Dù rằng mỗi người đều cảm nhận được những khốc liệt. Các em bé vẫn ra đời. Phi trường Tà Kơn. Truyện sau đó đăng trên báo Văn nghệ. Trong trái tim ông đã trở nên một miền ký ức với “nhiều kỷ niệm. Cũng bởi gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây nên khi viết “Năm tháng xa xanh”.

… Bức ảnh “Xe tăng Quân giải phóng chiếm Dinh Độc Lập 30/4/1975” trở thành một tượng trưng quen thuộc của ngày đại thắng.

Đánh giặc. Bút ký “Trên vòng đai điện tử”. Những người dân bám đất bám làng.

Mà còn nuôi dưỡng tâm hồn ông để có những bài thơ. Ra đi là lẽ dĩ nhiên và “trận mạc luôn có sức hút mãnh liệt đối với chúng tôi. Trong thế cục làm báo của mình. Với một tình cảm thân tình. Cũng trên mảnh đất đầy bom đạn khói lửa này.

Được gặp gỡ những con người quả cảm. Nhất là việc trao trả tù binh ở bờ sông Thạch Hãn; ông còn quay lại Quảng Trị nhiều lần nữa. Khiến ông dù không phải là dân văn chương chuyên nghiệp (ông học Đại học Kinh tế kế hoạch) nhưng đã có những tác phẩm văn chương sâu sắc.

“Trên nền cát trắng. Trạm cứu thương. “Sự tàn phá. Tươi mới và đầy xúc động. Đầy tâm huyết. Phóng viên của TTXVN về Quảng Trị. Ông viết về những người dân nơi đây chỉ bằng một câu như thế này đã nói lên ắt ý chí của cả dân tộc. Cùng với “Bích La Đông giải phóng. Tới thăm địa đạo Vĩnh Mốc. Gương mặt xinh đẹp sáng lên trong nắng và rất duyên dáng dưới vành mũ tai bèo”.

“Đất quê hương”. Đó là Thu Hồng. Có nơi họp hành. Những năm tháng trong chiến tranh biên cương Tây Nam 1979; cùng những tin. Niềm vui ấy khiến ông viết tiếp “Đôi mắt chiến trận” (truyện cũng đăng trên báo Văn nghệ. Chất liệu cuộc sống ấy. Cho đến sau này khi phóng thích rồi những ngày đầu chị không dám ra đường vì không quen ánh sáng mặt trời… Ông còn gặp nữ du kích nức danh với tài bắn tỉa Hoàng Thị Chẩm.

Những bà má có con đi chiến trận. Truyện ngắn đầy ý nghĩa. Bảy năm tôi có dịp may mắn được cùng đoàn cán bộ. Chỉ ban đêm mới lên trên mặt đất hoạt động.

Chiến sĩ kiêm cha văn hóa của đội du kích xã Gio Mỹ (Gio Linh). Không chỉ với báo chí mặc cả với văn chương. Bài báo trước hết ông viết trên mảnh đất Quảng Trị là“Lá thơ một khu tụ hợp” về cuộc sống khốn cùng của bà con trong khu tụ hợp Quán Ngang - một khu tập trung lớn nằm khoảng giữa Dốc Miếu đến Đông Hà.

Khi cùng đồng đội đánh chiếm căn cứ địch ở Bến Ngự. Khi đó lo hậu cần cho Đảng ủy. Đây là những câu thơ trong bài “Giếng nước dưới địa đạo”-bài thơ trước nhất ông viết ở tuyến lửa.

Bà con vẫn vững niềm tin vào cách mạng. Chuyến đi trước nhất và cũng là lần trước tiên đi xa nhà. Có giếng nước.

“Mùa bướm trắng”. Cô được gửi ra Bắc học nhưng đang học phổ thông đã tự nguyện xin về quê chiến đấu.

Nhưng cô gái ấy đã hy sinh sau khi ông gặp khoảng một tháng. Dù đã bốn mươi năm kể từ lần đầu tiên ông đặt chân lên mảnh đất này nhưng xúc cảm vẫn chỉ như mới hôm qua.

Ông cũng là một trong những phóng viên có mặt trước tiên tại Dinh Độc Lập ngày 30/4-giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ông không ngần ngại nét bút: “Tôi đã đi nhiều nơi trên sơn hà nhưng những ngày ở Quảng Trị với những năm tháng trẻ trung.

Ông viết truyện ngắn đầu tay “Mẹ Tư”- nguyên mẫu là một bà mẹ ở khu giao hội Quán Ngang nhiều năm giả điên để làm cơ sở cho cách mạng.