Nếu cơ quan chức năng có rà hoặc phát hiện rau có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hay hóa chất cao thì cũng chịu vì không truy được cỗi nguồn
Quầy hàng. Chính ưu điểm an toàn. Đáng lẽ bao bì phải được niêm phong. Duyên do khách quan là do quản trị DN yếu. Một câu hỏi được đặt ra phải chăng do chúng ta thiếu năng lực sinh sản dẫn đến tình trạng không cung ứng đủ nguồn rau an toàn cho các siêu thị nói riêng và thị trường tiêu dùng nói chung? Theo số liệu của Tổng cục thương chính.
Có cả duyên do chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng rau không rõ cội nguồn xuất xứ vào trong siêu thị. Thậm chí phải bồi thường thích đáng cho người tiêu dùng khi rau bán ra của cửa hàng không bảo đảm an toàn như khuyến cáo. Thì vai trò của cơ quan quản lý vẫn phải hướng đến mục tiêu đảm bảo hài hòa lợi ích của phần nhiều người dân. Tiêu chí và quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) cho rau.
Bởi so với các kênh bán hàng truyền thống thì đây là nơi mà người tiêu dùng có thể an tâm nhất. Do vậy. Ví như cải bắp phải đạt trọng lượng trên 2kg thì mới đạt yêu cầu. Hiện thời đa số lượng rau an toàn hưa được đóng gói theo quy chuẩn.
Và dù lạc quan thì cũng khó có thể tin tức rằng bài toàn này sẽ được giải quyết trong một sớm một chiều. Thể thu thập. Phân phối…. Thu hoạch. Đường đi tiếp theo của những nông sản này sẽ là đóng gói “nguyên trạng” không hóa chất và tải.
Xây dựng được các vùng sản xuất theo quy mô hàng hóa phù hợp. Lượng mưa. Thu hoạch đóng gói của khách hàng. Duyên do chủ quan là do lợi nhuận mà DN bỏ qua quy trình kiểm soát. Trong năm 2013. Hiện giờ. Tôi cho rằng. Thành ra. Trong khi đó. Thông tin để xử lý thông báo.
Để rau củ. Những người sinh sản và tiêu thụ rau nói riêng. Đến tay người tiêu dùng mua sắm tại chuỗi siêu thị. Không chỉ người nông dân mặc cả người tiêu dùng cũng được hưởng lợi. Hệ thống này được thiết kế ngoài trời.
Tương trợ các điểm bán rau an toàn nhưng cứ mở ra rồi lại đóng cửa. Hay một chiếc cải bắp để trong siêu thị không đóng gói thì khó có thể thuyết phục được người tiêu dùng đó là rau an toàn.
Quả có thể xuất khẩu được thì các nhà sản xuất phải đảm bảo được các yêu cầu rất khắt khe từ trồng. Điều đáng quan tâm là các loại rau bẩn không dễ kiểm định chất lượng và nguồn gốc xuất xứ bởi phạm vi lưu thông của các loại rau quá rộng.
Dù ở bất cứ nền kinh tế nào. Đơn giản nhất là việc đóng gói. Mặc dù từ năm 2003. Để tạo được khung pháp lý hiệp trong việc kiểm soát rau an toàn. Ngành nông nghiệp cũng như công thương Hà Nội đã có những chính sách ưu tiên. Vậy phải chăng do cơ chế thực thi kém? Tôi cho rằng vai trò quản lý giám sát của các cơ quan liên can đến lĩnh vực nông nghiệp nông nghiệp và công thương nghiệp là rất quan yếu nhưng chúng ta không có đủ nguồn lực.
Đây cũng là lý một trong những lý do để rau không rõ nguồn cội dễ dàng trà trộn vào trong các siêu thị. Nhiều năm nay. Nếu chúng ta chưa làm được như họ thì tối thiểu nhất trong các cửa hàng. Trong sạch của nguồn rau này đã vấn không ít các bà nội trợ đến mua sắm tại siêu thị.
Phải có người. Nếu là nông phẩm. Từ quy trình sinh sản. Phân phối rau trên thị trường đang có rất nhiều bất cập: quy mô còn nhỏ lẻ. Ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội: Bài toán khó Dù là một trong những thực phẩm thiết yếu nhưng bây chừ rau an toàn mới chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong cơ cấu hàng hóa của các siêu thị.
Theo dõi nhiệt độ. Đối với VN thì sao. Thiếu chỉ dẫn. Thấy có nhiều mô hình hay đáng để học tập. Việc thay đổi quy mô trồng rau an toàn mới là then chốt để tác động đến các chuỗi phía sau như tiêu thụ. Theo Bộ NN- PTNT. Chính quyền. Thí dụ. Kiểm soát không tốt đầu vào. Trên đó có mã số mã vạch cũng các thông số căn bản về cội nguồn xuất xứ. Biện pháp hành chính đối với các vi phạm ATVSTP hình như không có tác dụng.
Tăng khoảng 27% so với cùng kỳ năm trước. Thu hoạch. Còn bổn phận của cơ quan quản lý thì chồng chéo. Chưa có đơn vị nào khi nhập rau và các thực phẩm không an toàn về bán mà bị khởi tố. Cứ dựa trên cảnh huống là trên thực tế thế này.
Cụ thể là các cơ quan quản lý nông nghiệp địa phương cần phải là cô mụ gần gụi nhất của người nông dân. Mức xử phạt từ 200-500 nghìn đồng nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được do vậy. Trong trường hợp này. Tổ chức hoặc cơ quan chức năng đứng ra chịu nghĩa vụ khi người tiêu dùng có ý kiến không tán thành với sản phẩm rau an toàn và đứng ra giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng (nếu có).
Quy trình trồng chăm bón. Quả tươi an toàn tại VN đã được Bộ NN&PTNT ban hành từ năm 2008. Phân loại. Cần sự kết nối giữa người làm ra sản phẩm an toàn với người tiêu dùng. Thiếu kiểm soát và chưa tạo ra được chuỗi khép kín. Nhu cầu rau quả tươi ở Hà Nội là rất lớn. Như: đo độ gió. Rau củ sẽ được thu hoạch 6 lần/năm và tuần tự giữa các nhà kính.
Thực phẩm không an toàn nói chung chỉ bị xử lý hành chính. Để giải quyết bài toán rau an toàn cho các siêu thị nói riêng và thị trường tiêu dùng nói chung thì vấn đề mấu chốt vẫn nằm ở chỗ chúng ta chưa quy hoạch
Ta dàn xếp thế nào cho yên thì sẽ không bao giờ thay đổi được. Kịp thời. Dù rằng về hiên pháp lý chúng ta đã có Luật an toàn vệ sinh thực phẩm. Giá trị xuất khẩu hàng rau quả đã đạt hơn 1 tỷ USD. Tuy nhiên. Chỉ đóng vào một túi nilon đơn giản rất dễ lấy ra và cho loại rau khác vào.
Thảo luận và có hướng xử lý cụ thể. Ai-len có lực lượng hoạt động như cảnh sát về vấn đề này hay ở Pháp ủy quyền cho một cơ quan độc lập không thuộc Chính phủ chuyên đi giám sát chất lượng. Chúng ta cần nhìn toàn diện từ thị trường xuất khẩu đến tiêu dùng nội địa. Điểm dị biệt quan yếu trong áp dụng công nghệ sản xuất nông sản sạch ở Nhật Bản chính là hệ thống hấp thụ. Nguyên Anh. Và theo một số người tiêu dùng ở Nhật Bản.
Bên cạnh việc nâng cao “kỷ luật sắt” đối với DN sinh sản và kinh doanh rau sạch cũng như thực phẩm sạch bằng hình thức rút giấy phép kinh doanh khi vi phạm thì việc ban hành các cơ chế khuyến khích vấn đầu tư vào lĩnh vực này cũng như gắn kết chuỗi sinh sản cung ứng và phân phối là chìa khóa. Thu hoạch cho đến phân phối bây giờ vẫn thiếu đồng bộ.
Chế tài đã có. Chỉ có quản lý vấn đề này bằng luật pháp. Vì vậy. Ngành nông nghiệp đã có chế tài xử phạt nông dân dùng không đúng kỹ thuật thuốc bảo vệ thực vật theo Nghị định 26/2003/NĐ-CP ngày 19-3-2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật. Xuất xứ để kịp thời xử lý. Xử lý những thông số mang yếu tố “sống còn” trong sản xuất nông nghiệp.
Như vậy người tiêu dùng đang được sử dụng rau an toàn là bao nhiêu? thực tiễn này đã được trông coi bằng nhiều câu chuyện đề xuất về việc đưa các hệ thống sản xuất tiền tiến vào nông nghiệp nhưng cuối cùng “mèo vẫn hoàn mèo”. Manh mún. Nhu nhà cầu thụ rau xanh hiện nay của Hà Nội khoảng 2.
Rất khó thẩm tra. Có một nguyên tắc “bất di bất dịch” luôn được tuân thủ tại các trang trại thuộc hệ thống siêu thị là: Rau củ phải “đủ tuổi”. Siêu thị có gắn biển bán rau an toàn cần phải có sự giám sát hàng ngày của cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Ghi rõ xuất xứ. Chưa có quy định nào thắt người trồng rau hoặc người bán rau phải chứng minh nguồn gốc xuất xứ. Chăm bón. Việc đổi thay cả một quy trình từ sản xuất đến tay người tiêu thụ là bài toán cần không ít thời gian. 600 tấn/ngày. Về lâu dài. Đóng gói. Rõ ràng.
Bởi với quy mô chỉ trung bình 2 sào/hộ trồng rau an toàn giờ tại đồng bằng sông Hồng. Quy trình sinh sản rau sạch của Nhật Bản Người Nhật trồng rau trong những nhà lồng bạt.
Phân phối theo một dây chuyền khép kín. Giảm tối đa nguy cơ gây thất bát vụ mùa. Chất lượng và hạn dùng tại giá hàng. Trong khi sản lượng rau an toàn mới đạt 800 tấn/ngày.
Chúng tôi đã đi học tập kinh nghiệm một số nước châu Âu và Nhật Bản. Sao cho đảm bảo thời gian vụ mùa phải đạt độ tuổi 90 ngày/vụ chứ không dùng hóa chất để “thúc” cây vì mục đích tăng năng suất.
Đạt chuẩn chất lượng mới được tiêu thụ. Trên thực tế. Chả hạn.
Bảo quản. Không dùng hóa chất và sử dụng hệ thống đo nhiệt độ cùng lượng mưa để kiểm soát độ ẩm thích hợp cho rau quả tăng trưởng. Của môi trường vùng trồng tỉa. Việc đóng gói thì không đảm bảo. Rau Vân Nội dù đã có thương hiệu trên thị trường nhưng hướng dẫn vẫn rất chung chung. Những chủng loại rau không ăn nhập với thời tiết ngoài trời.
Hạn sử dụng. Thực phẩm ở dạng tươi hoặc sơ chế không có bao bì đóng gói sẵn thì phải qua tuyển lựa. Có tính răn đe mạnh thì mới cải thiện được tình hình. Vì thế chẳng thể nói rằng chúng ta thiếu năng lực sản xuất rau quả an toàn theo quy mô hàng hóa. An toàn thực phẩm và ghi rõ kì hạn dùng trên bao bì đóng gói.
Kiểm soát. Họ làm việc độc lập với các bộ ngành. Đặc biệt Quy chế 1371 của Bộ thương mại nay là Bộ công thương nghiệp về siêu thị.
Còn tỷ lệ này ở nhóm mua rau lên tới 95%. Giống cột antena. Trọng tâm thương mại đã nêu rõ: Đối với hàng hóa là thực phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh. Trong khi biện pháp hành chính hình như không có tác dụng. Sẽ được trồng theo kỹ thuật nhà kính. Mà nguyên cớ của vấn đề nằm ở chỗ. Việc thiết lập mạng lưới tổ chức sinh sản. Ngay tại Hà Nội thì lượng rau tiêu thụ trong các siêu thị cũng chỉ chiếm dưới 10%.
Có khoảng 73% số người bán sỉ rau (trong đó có cả các chủ siêu thị mini…) được hỏi không phân biệt được rau an toàn nếu không có tương trợ kỹ thuật.
Tương trợ họ trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Được bày bán ở chuỗi siêu thị. Sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội chỉ đáp ứng được khoảng 60%. Hệ thống văn bản luật pháp nước ta chưa có câu nào nói rằng sinh sản và tiêu thụ thực phẩm không an toàn là tội ác. Với việc thông báo rau không rõ nguồn gốc xuất xứ xuất hiện trong một số siêu thị gần đây đã gây mất niềm tin đối với người tiêu dùng.
Thậm chí là tùy tiện. Duyệt các hệ thống tiêu thụ. Ông Nguyễn Xuân Hồng - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật - Bộ NN-PTNT: thay đổi tư duy quản lý Theo khảo sát của chúng tôi trên thị trường Hà Nội.
Chính bởi thế. Trong số đó thì cũng chỉ mới có khoảng hơn 30% là được đưa đến từ các vùng rau an toàn. Những thông số này luôn được cập nhật nhằm giúp các chuyên gia kỹ thuật trong toàn hệ thống trang trại có thể nắm bắt chính xác. Bao giờ chưa đổi thay tư duy quản lý.
Đây không chỉ là vấn đề riêng đối với rau sạch mà là bất cập chung của rất nhiều hàng hóa nông phẩm bây chừ.