Cụ thể: Có tới 46,6% các hộ gia đình không lắp đặt che đậy cho các bộ phận chuyển động có nguy cơ gây tai nạn, 71,9% các hộ gia đình không treo các chỉ dẫn an toàn khi vận hành máy
Thông báo về buồng TNTT đối với người dân còn hạn chế, nguồn cung cấp thông tin về buồng TNTT cho người dân đốn là ti vi/đài; thông báo tiếp cận sơ sài phát thanh xã và qua cán bộ y tế chiếm tỷ lệ thấp. Thái Nguyên là tỉnh có tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn cao nhất (47,8%), tiếp đến là Đăk Lăk (36,1%), yên bình (10,3%) và thấp nhất là Đồng Tháp (7,8%).
Nông dân trồng chè, lúa, cà, phê ít người nghĩ mình có thể bị tai nạn lao động. Tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn về an toàn hóa chất còn chưa cao tại 4 tỉnh nghiên cứu (42,6% tại Đăk Lăk; khoảng 64% tại Thái Nguyên và Đồng Tháp; 76% tại yên bình). Trong vòng 20 tháng, tiến sĩ Thúy Quỳnh và các cộng sự tham gia nghiên cứu đã phỏng vấn 6. 65,7% hộ gia đình không được chỉ dẫn về an toàn dùng hóa chất bảo vệ thực vật.
Vẫn còn chủ quan Ngoài các yếu tố “nhỏ” mà ND ai cũng mắc phải thì còn khá nhiều tai nạn can dự tới máy nông nghiệp.
Kết quả cho thấy có tới ngót 500 dân cày từng bị TNTT trong thời kì 1 năm trước khi được hỏi. 275 hộ nông dân (ND) bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn; 50 cuộc phỏng vấn sâu được tiến hành đối với các đối tượng như cán bộ đảm đương y tế cần lao tuyến tỉnh, huyện và xã; cán bộ thanh tra và an toàn cần lao tuyến huyện; cán bộ hội ND tuyến huyện và xã; chủ toạ hoặc phó chủ tịch xã; và người nhà của nạn nhân bị TNTT trong lao động nông nghiệp.
Khoảng 3/4¾ số người bị TNTT là thu nhập chính của gia đình và TNTT đã có ảnh hưởng lớn và vừa tới kinh tế của 70% gia đình ND.
2010 tại 4 tỉnh được chọn có chủ đích, đó là: thăng bình, Đồng Tháp (trung tâm về lúa gạo), Thái Nguyên (trung tâm trồng chè) và Đăk Lăk (trọng điểm trồng cà phê). Nhìn chung thực trạng về nhân lực, thuốc và các trang thiết bị tại các trạm y tế vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu về mặt kỹ năng và chuyên môn cũng như số lượng nhân viên y tế.
Số ngày nghỉ làm trung bình của các nạn nhân là 16,3 ngày. Cùng với hệ thống quản lý, chính sách còn chung chung, chưa có chính sách cụ thể về buồng TNTT trong nông nghiệp là một nguyên nhân và đồng thời cũng là rào cản lớn cho chương trình phòng chống TNTT.
Tiến sĩ Thúy Quỳnh nhận định là do: “Thực hành an toàn máy của người dân chưa cao”. 000 người tử vong, khoảng 170. Vật sắc nhọn, ngộ độc, ngã, say nắng/nóng, động vật cắn/tấn công, tai nạn liên lạc và mang vác nặng là các duyên cớ gây TNTT cho người ND, trong đó vật sắc nhọn là căn do hàng đầu gây TNTT ở cả 4 tỉnh.
Lê An. Đa phần đều gặp nạn Nghiên cứu thực trạng tai nạn thương tích (TNTT) trong nông nghiệp tại Việt Nam được tiến sĩ Thúy Quỳnh và cộng sự tiến hành trong thời gian từ tháng 5.
Tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn về sử dụng máy nông nghiệp còn rất thấp (25,5%). 000 ca tử vong do tai nạn lao động liên quan đến nông nghiệp. Hệ thống y tế tuyến xã chưa đáp ứng được nhu cầu điều trị các trường hợp TNTT tại địa phương.
Bảo hộ cần lao đủ và đúng cũng là một vấn đề tồn tại ở các tỉnh nghiên cứu: 23,4% ND không được trang bị bảo hộ cần lao đủ khi phun thuốc; 28% trong số đó cho rằng bảo hộ cần lao làm vướng víu và ngăn cản các hoạt động lao động.
Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ tử vong do tai nạn cần lao trong nông nghiệp cao gấp đôi so với các ngành khác. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 2- 5 triệu người nhiễm độc hóa chất BVTV với khoảng 40. 2009 đến tháng 12. Trong khi ND còn chủ quan thì việc hỗ trợ, giúp ND kiểm soát tai nạn cũng còn rất yếu.