Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

Xây dựng các tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị cao: Còn nhiều ngổn ngang



Nghệ sĩ Thanh Hoàng, Mỹ Uyên và Cát Tường trong vở Biển của Nhà hát Kịch sàn diễn nhỏ 5B Võ Văn Tần. Câu chuyện 5B Ngày 17-7-1997, UBND TPHCM ký quyết định nâng cấp CLB sàn diễn thể nhiệm thành rạp hát kịch sàn diễn nhỏ (còn gọi sàn diễn nhỏ 5B). Năm 1998, Nghị quyết Trung ương 5 - khóa 8 ra đời và nhanh chóng trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của sàn diễn nhỏ 5B khi đó. Dưới sự hỗ trợ mạnh mẽ của TP, hàng loạt sự kiện lớn của sàn diễn TP đã diễn ra tại đây, như Tháng liên hoan sân khấu nhỏ lần 1 (1992), lần 2 (1993). Trở thành đơn vị tiên phong với những vở kịch tạo tiếng vang lớn, thường xuyên duy trì 12-14 vở, mỗi đêm diễn 1 vở khác nhau. Trong đó, có nhiều vở kịch trở thành hiện tượng lớn của sàn diễn trong nước như Dạ cổ hoài lang, vở mà khán giả phải xếp hàng mua vé từ trước 1 tháng. Theo NSƯT Thanh Hoàng, người điều hành sàn diễn 5B, có được thành tựu đó nhờ sự đồng lòng của nghệ sĩ và sự đồng bộ trong công tác chỉ đạo, quản lý của nhà nước. Bắt đầu từ cuối 2003 đến 2008 nhiều “tinh hoa” từ 5B tách ra làm sàn diễn riêng trên cơ sở doanh thu, lợi nhuận. Những sân khấu này cũng không còn lệ thuộc vào Hội sàn diễn TP và một số đơn vị đã thực hiện những vở diễn hướng đến nhu cầu dễ dãi của khán giả và tụ hợp đẵn vào mục tiêu giải trí. Thời đoạn 2008-2013 là thời gian những vở kịch khai hoang đề tài đồng tính, ma quỷ, kinh dị… xuất hiện đều đặn và dày đặc, đáng báo động. Trong khi đó, sân khấu nhỏ 5B vẫn kiên trì với hành trình của mình với những vở kịch hướng đến những giá trị tốt đẹp nhất, hướng đến đích phục vụ cộng đồng. Thế nhưng, cơ sở vật chất của cơ sở 5B ngày một xuống cấp đã cản ngăn khán giả đến với sân khấu. Thậm chí, dự án làm thang máy phục vụ khán giả, sân khấu 5B đã tự thân vận động, dự án đã có, kinh phí các nhà hảo tâm đã chuẩn bị xong, thế nhưng đã 3 năm qua vẫn chưa thể làm được do vướng cơ chế. Việc trình diễn cũng thế, như vở Điều ước linh đơn vị tự chạy nguồn kinh phí thực hiện, phục vụ các trường, bệnh viện, xí nghiệp… được đánh giá cao, tạo dư luận tích cực. Theo yêu cầu của TP, 5B tiếp kiến phục vụ thêm 20 suất miễn phí, quốc gia hỗ trợ kinh phí nhưng đến khi quyết toán thì chỉ nhận được mức quyết toán của một đơn vị nghệ thuật công lập, không đủ trang trải. Thực trạng chung Nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình Ngô Ngọc Ngũ Long làm rõ hơn thực trạng hiện giờ với những tỉ dụ ở điện ảnh và âm nhạc. Với điện ảnh, các rạp chỉ tụ tập chiếu phim ngoại, còn phim nội dù giải vàng, giải bạc đều bị chối từ hay chỉ chiếu 1-2 suất cho có. Lý do đơn giản là lợi nhuận và cũng vì lợi nhuận khi làm phim trong nước, để thu hút khán giả, nhà sản xuất chỉ chằm chằm vào yếu tố tiêu khiển, xem nhẹ nội dung. Ở âm nhạc, giờ bất cứ một chương trình nào cũng có nhà tài trợ và để quảng bá thương hiệu, các nhà tài trợ đã gây sức ép để ưu tiên các loại nhạc thị trường, từ đó tạo nên sự mất thăng bằng trầm trọng trong thưởng thức âm nhạc hiện thời. Việc quản lý gần như buông xuôi, để mặc âm nhạc, điện ảnh tự trôi nổi. Chủ tịch Hội Điện ảnh TPHCM Dương Cẩm Thúy lại có một minh họa khác, vấn đề không chỉ ở khâu quản lý mà còn ở cả cách đối xử, quan tâm. Liên hoan phim quốc gia là nơi để người làm phim gặp nhau, xem phim của nhau, bàn thảo nghề nghiệp… nhưng người làm phim lại không được mời, thậm chí vé xem phim cũng không có, trong khi ban tổ chức dồn các học trò cấp 2 đi xem cho đầy rạp. Đối xử với người làm phim tệ đến vậy là cùng. Một vấn đề nữa được nêu lên là sự thiếu quy hoạch, quan hoài trong đào tạo. Họa sĩ, Nhà giáo nhân dân Uyên Huy nêu thực trạng giảng dạy nghệ thuật như bây giờ, mảng tri thức cơ bản vẫn chỉ dạy môn phái ấn tượng vốn có từ cuối thế kỷ 19, còn trên 20 môn phái nghệ thuật hiện đại sau đó, rồi hệ thống hậu đương đại… đều bỏ trống, tạo nên một lỗ hổng tri thức lớn. Rồi quyết nghị Trung ương 5 - khóa 8 nêu rõ bảo vệ và phát huy bản sắc truyền thống nhưng trong các trường mỹ thuật Việt Nam lại không có khoa mỹ thuật truyền thống, điều mà các nước lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan… đã làm từ lâu. Việc phát triển văn hóa hiện đại làm sao tiến hành khi hệ thống hí viện, bảo tồn còn lạc hậu. Nghĩa vụ và vai trò Trước sự nhiễu loạn của VHNT bây giờ, bà Ngô Ngọc Ngũ Long thẳng thắn nêu ra căn do lớn nhất là do “chưa có cầu tiêu pháp lý rõ ràng và nghiêm minh”. Gìn giữ và phát triển nền văn hóa tiền tiến, đượm đà bản sắc dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà còn phải được thực thi bằng chiến lược bảo vệ văn hóa trên cơ sở xây dựng pháp luật về văn hóa cũng như hỗ trợ các lĩnh vực văn hóa trong nước. Như Hàn Quốc đã buộc các rạp chiếu phim phải chiếu phim nội địa ít ra 106 ngày trong năm, Pháp quy định cụ thể tần suất phim nội địa trên truyền hình… Nếu cứ xem nhẹ, buông lỏng cho thị trường tự do thì hệ quả thế tất chẳng thể lường trước được. Bà Dương Cẩm Thúy đặt vấn đề: “… Ta thử đặt ra vài câu hỏi thôi: thanh niên hiện nay làm gì sau giờ học, lao động? Tại sao ta để phim Hàn Quốc, Trung Quốc tràn đầy màn ảnh truyền hình của ta? vì sao lại để một số phim Việt Nam kém chất lượng chiếm những giờ vàng, có hàng triệu khán giả xem, trong đó có thiếu nhi? Và khi trả lời được những câu hỏi đó, có khi ta sẽ có một chiến lược lớn, toàn diện để phát triển VHNT nước nhà”. TƯỜNG VY